HÁT BỘI

Giới thiệu tác phẩm

Bức tranh tái hiện một cách rực rỡtrang nghiêm tinh thần của hát bội – loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống lâu đời của Việt Nam, đặc biệt phát triển rực rỡ tại vùng Nam Bộ từ thế kỷ XVII. Tác phẩm không đi sâu vào từng nhân vật cụ thể, mà khắc họa tổng thể khí chất của năm tuyến vai đặc trưng: trung – nịnh – trung lập – nam – nữ, qua phục sức, hóa trangthần thái đặc trưng của mỗi vai tuồng.
Mỗi nhân vật trong tranh đều giữ nguyên quy chuẩn tạo hình khắt khe của hát bội, thể hiện qua màu mặt, y phụcđạo cụ – không chỉ để nhận diện mà còn truyền tải đạo lý và tính cách. Sự đối xứng bố cục, họa tiết viền lấy cảm hứng từ kiến trúc đình miếu, cùng với gam màu cổ điển nhưng sang trọng, giúp tác phẩm vừa giữ được tính truyền thống, vừa mang hơi thở đương đại trong trình bày.
Qua bố cục hội họa chặt chẽ và biểu cảm mạnh mẽ, tác phẩm trở thành một bản tuyên ngôn thị giác cho giá trị của hát bội – loại hình nghệ thuật từng là quốc kịch, phản ánh tư tưởng Nho giáo, đạo lý trung hiếu, và tinh thần tráng lệ của văn hóa cung đình Việt xưa. Đây là lời mời gọi chiêm ngưỡng không chỉ một di sản sân khấu, mà cả một hệ mỹ học dân tộc đầy bản sắc và chiều sâu lịch sử.

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT

Nhân vật ‘’Lão’’

Trong nghệ thuật hát bội – một loại hình sân khấu truyền thống mang đậm yếu tố nghi lễ và kịch tính của Việt Nam – các nhân vật được phân chia theo hệ thống vai mẫu gọi là hệ thống vai cách. Trong đó, vai Lão là một vai trò quan trọng, đại diện cho những nhân vật nam giới cao tuổi, thường giữ vai trò bề trên, có địa vị, kinh nghiệm hoặc quyền lực trong xã hội. Vai Lão không chỉ giúp khắc họa chiều sâu về thời gian và thế hệ trong vở tuồng mà còn góp phần truyền tải các giá trị đạo đức, phép tắc, hoặc đôi khi là sự suy đồi quyền lực và mưu mô trong chính trường.
Nhân vật Lão trong hát bội thường được chia thành hai nhóm chính là lão trung và lão nịnh. Lão trung là những người già trung thực, chính trực, trung nghĩa, thường đại diện cho hình mẫu trung thần, quân tử, hoặc cha hiền. Ngược lại, lão nịnh lại là kiểu nhân vật gian xảo, nịnh bợ, dùng tuổi tác và địa vị để che giấu dã tâm, gây rối loạn triều chính. Chính sự phân hóa này giúp khán giả dễ dàng nhận diện thiện – ác, chính – tà qua lối biểu diễn ước lệ đặc trưng của hát bội.

Nhân vật Phàn Định Công. Diễn viên: Nghệ sĩ Đông Hồ

Phàn Định Công là nhân vật thuộc phe chính diện trong kịch bản “San Hậu”. Ông là cha ruột ruột của Phàn Phụng Cơ và Phàn Diệm, là bề tôi rất mực trung thành với vua Tề. Phàn Định Công là nhân vật tiêu biểu vừa cho mô hình “lão võ” vừa cho mô hình “lão lõa”. Thuộc tính “võ” ở đây nhằm khắc họa vị lão tướng giữ vai trò trấn thủ vùng đất San Hậu hiểm yếu. Còn “lõa” ở đây là một đặc điểm trong hóa trang nhân vật. Cũng giống như mô hình “kép tròng xéo đỏ” trong mô hình “kép”, “lão lõa” cũng là mô hình lão vượt qua khỏi những đặc điểm chung và có nhiều biện pháp “khoa sức” trong hóa trang: Mặt đỏ, có mảng trắng quanh mắt lan ra gò má, râu liên tu bạc; tác phong nóng nảy, quyết đoán.

Nhân vật ‘’Đào’’

Vai Đào trong hát bội là một trong những vai trò quan trọng và có tính biểu trưng sâu sắc trong hệ thống nhân vật của nghệ thuật hát bội. “Đào” là tên gọi chung cho các vai nữ, tương ứng với giới tính và các phẩm chất nữ giới trong xã hội truyền thống. Tuy là vai nữ, nhưng Đào không đơn thuần chỉ để “làm đẹp” cho sân khấu, mà còn mang trong mình chiều sâu tâm lý, đạo đức và vai trò then chốt trong mạch truyện.
Trong hát bội, vai Đào được chia thành nhiều dạng khác nhau, tùy theo độ tuổi, tính cách và vị trí xã hội. Các dạng tiêu biểu có thể kể đến là đào chính (đào thương) – người phụ nữ đoan trang, trung hậu, giàu đức hạnh; đào võ – nữ tướng dũng cảm, thông minh, trung nghĩa; đào lẳng – nhân vật nữ sắc sảo, đôi khi có phần tinh quái, có thể là phản diện hoặc bán phản diện; và đào mụ – phụ nữ lớn tuổi, thường là mẹ, vú nuôi hoặc bà lão có vai trò hỗ trợ. Sự đa dạng đó giúp hát bội khắc họa chân dung người phụ nữ từ nhiều góc độ, không chỉ là hình mẫu lý tưởng mà còn phản ánh thực tế xã hội.

Trong kịch bản “San Hậu”, Tạ Nguyệt Kiểu là chị ruột của Tạ Thiên Lăng, Tạ Ôn Đình, là người trong gia đình tiếm quyền. Song, Nguyệt Kiểu lại có lập trường trung quân, phản đối hành động vô luân của người thân, âm thầm giúp đỡ nhà Tề khôi phục giang sơn. Tạ Nguyệt Kiểu mang đầy đủ những đặc điểm chung của mô hình “đào văn”: hóa trang mặt sạch; tác phong đoan trang, dịu dàng; hát – nói trong sáng. Ngoài ra, ở cấp độ nhánh chi tiết hơn, Nguyệt Kiểu là kiểu nhân vật nữ tham gia việc triều đình chính thống nên xếp vào loại “đào trào”.

Nhân vật ‘’Kép’’

Nhân vật Tạ Nguyệt Kiểu. Diễn viên: Nghệ sĩ Kiều My

Nhân vật Chung Vô Diệm. Diễn viên: Nghệ sĩ Ngọc Giàu

Chung Vô Diệm là vương hậu nước Tề thời Chiến quốc trong lịch sử Trung Quốc. Tương truyền bà là người nhà trời bị đày xuống phàm gian, mang hình lốt xấu xí, song cực cực kỳ tài lược, phép thuật hơn người. Nhờ có Chung Vô Diệm mà vua Tề mới định thâu được lục quốc lúc bấy giờ. Chung Vô Diệm là hình mẫu nhân vật nữ (“đào”) tiêu biểu cho kiểu hóa trang “mặt nạ”. Để biểu đạt sự xấu xí khác người trong diện mạo nhân vật, thông thường hóa trang Chung Vô Diệm chọn màu nền xanh, trán có họa tiết chữ “nhâm” to màu đỏ, khoang tròng mắt to, kéo dài xuống gò má, miệng rộng đỏ tươi, nanh dài chĩa xuống tận cằm. Đây là cách mượn hình ảnh của loại linh thú trong thần thoại Đông Á, hoặc gương mặt của “chằn” trong nghệ thuật tạo hình Nam Á mà ra. Về trang phục, Chung Vô Diệm luôn mặc bộ giáp nữ truyền thống của hát bội, đầu đội ngạch có 3 sừng ở trên (biểu trưng bằng ba chiếc que dựng đứng), có thể giắt lông trĩ hỗ trợ làm đẹp vũ đạo và thuộc tính “võ”, vũ khí dùng kèm là siêu. Chung Vô Diệm là nhân vật thuộc mô hình “đào võ”.

Kép trong hát bội là loại vai đại diện cho nhân vật nam trẻ tuổi, thường giữ vai trò chính diện, có ngoại hình khôi ngô, phẩm chất cao quý, tài năng xuất chúng, và là trung tâm của mạch truyện. Vai Kép không chỉ là biểu tượng cho hình mẫu nam tử lý tưởng trong xã hội phong kiến mà còn là nơi tập trung những yếu tố đẹp nhất của nghệ thuật hát bội cả về giọng hát, vũ đạo và hóa trang.
Trong hệ thống vai hát bội, Kép được chia thành nhiều dạng khác nhau, nhưng nổi bật nhất là Kép văn và Kép võ. Kép văn là những chàng trai học rộng, tài cao, trung nghĩa, thường xuất thân là hoàng tử, trạng nguyên, danh sĩ… Họ nổi bật bởi đạo đức, trí tuệ và sự điềm đạm. Ngược lại, kép võ là những vị tướng trẻ, võ nghệ cao cường, tính cách hào sảng, trung nghĩa và gan dạ. Cả hai loại vai này đều là hình ảnh lý tưởng của người quân tử trong truyền thống phương Đông – “văn võ song toàn”, “trung quân ái quốc”, “trung tình nhất niệm”.

Đổng Kim Lân là nhân vật chính diện tiêu biểu cho tư tưởng “trung quân” trong kịch bản hát bội kinh điển “San Hậu”. Đổng Kim Lân thuộc vào vào kiểu mô hình nhân vật “kép đỏ”. Đây là mô hình nhánh cấp 2 đặc thù của mô hình “kép”, nên về cơ bản hóa trang gần giống “kép” chỉ thay đổi màu nền gương mặt là đỏ tươi, đỏ hồng. “Kép đỏ” thường là loại nhân vật bộc lộ cá tính trung nghĩa, khí phách cương trực. Là kiểu mẫu của người anh hùng thuộc phe chính diện. Kịch bản “San Hậu” được chia thành 3 tuồng, diễn biến theo thời gian tuyến tính. Ở 2 tuồng đầu, Đổng Kim Lân là nhân vật còn trẻ tuổi, đến tuồng thứ 3 thì Đổng Kim Lân đã ở độ tuổi trung niên nên đeo râu 5 chòm dài suôn mượt. Nhân vật này vừa thể hiện được nhân vật kép ở độ tuổi trẻ lẫn trung niên. Thông thường phục trang của Đổng Kim Lân áo long chấn, đầu đội kim khôi, vũ khí thường dùng là trường thương.

Nhân vật Đổng Kim Lân. Diễn viên: NSƯT Linh Hiền

Nhân vật Quan Vũ. Diễn viên: Nghệ sĩ Minh Khương

Giống như Lữ Bố, Quan Vũ là một nhân vật lịch sử nổi tiếng cuối thời Đông Hán ở Trung Quốc. Quan Vũ cũng trở thành nhân vật tiêu biểu cho các tính “tuyệt nghĩa”, “tuyệt dũng” trong pho tiểu thuyết “Tam quốc chí diễn nghĩa” của La Quán Trung. Không những vậy, Quan Vũ còn trở thành một vị phúc thần trong tín ngưỡng dân gian Trung Hoa và nhiều quốc gia khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam.Quan Vũ là nhân vật có sự kết hợp giữa hai mô hình “kép đỏ” và “tướng”. Hóa trang mặt Quan Vũ luôn dùng màu đỏ làm nền, râu năm chòm dài nho nhã, đúng như miêu tả trong tiểu thuyết “mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt”. Quan Vũ thường vận phục trang là bộ giáp nam truyền thống của hát bội, vũ khí sử dụng là siêu, tức “Thanh long yển nguyệt đao”.

Nhân vật ‘’ Nịnh’’

Nịnh trong hát bội là một dạng vai phản diện đặc trưng, đại diện cho những nhân vật gian xảo, xảo quyệt, nịnh bợ và mưu mô. Trong hệ thống vai trò mang tính ước lệ và quy phạm cao của hát bội, vai Nịnh không chỉ đơn thuần là kẻ xấu, mà còn là hình ảnh khái quát của những thế lực tiêu cực trong xã hội phong kiến, góp phần tạo nên xung đột, đẩy kịch bản đến cao trào và làm nổi bật các giá trị chính nghĩa được đại diện bởi các vai chính như Kép, Đào, Lão trung.
Vai Nịnh thường là những nhân vật ở gần vua, quyền lực nhưng không chính trực. Họ có thể là tể tướng gian thần, thái giám lộng quyền, quan nhỏ xu nịnh, hoặc kẻ ác đội lốt trung thần. Những nhân vật này thường dùng lời đường mật, giả nhân giả nghĩa để lừa gạt người khác, bày mưu hãm hại trung lương, chiếm đoạt quyền lực hoặc phục vụ mưu đồ cá nhân. Chính vai trò đầy thủ đoạn đó khiến nhân vật Nịnh trở thành trung tâm của những mưu sâu kế hiểm trong nhiều vở tuồng cổ.

Nhân vật Đổng Trác. Diễn viên: Nghệ sĩ Hoàng Hà

Đổng Trác tiếp tục là một trong bộ ba nhân vật nam (cùng với Lữ Bố, Vương Doãn) tiêu biểu trong tích truyện “liên hoàn kế” hay kịch bản “Phụng Nghi đình”. Trong “Tam quốc chí diễn nghĩa” của La Quán Trung, Đổng Trác được miêu tả là một tên gian thần lộng quyền, có tham vọng thí chúa đoạt ngôi. Quan niệm đó đi vào dân gian và những sáng tác thông tục, bao gồm cả những kịch bản hát bội đã được “Việt Nam hóa”. Do đó, Đổng Trác là nhân vật đại diện cho mô hình nhân vật “nịnh”, thuộc vào nhánh “nịnh gốc”, tức “nịnh” đã có phe cánh vững mạnh. Tạo hình nhân vật Đổng Trác trên sân khấu hát bội bao gồm: Hóa trang mặt nền màu trắng (mặt mốc), râu rìa xồm xoàm, mũi nở rộng như mũi trâu; bụng to, dáng đi khệnh khạng, kềnh càng; phục trang thường là mãng bào lớn, đầu đội mũ bình thiên.

HỌA TIẾT KHÁC

"Chiếc khăn được viền bằng hoa văn cổ điển lấy cảm hứng từ kiến trúc cung đình và trang trí sân khấu tuồng cổ"

Họa tiết viền vàng

Những đường viền mềm mại, uốn lượn, đan xen với các hình hoa lá cách điệu chính là biến thể hiện đại của các mô-típ “hồi văn” và “liên hoa văn” – những họa tiết thường thấy trên kiến trúc đình chùa, các lớp ngói lợp, bệ đá chạm khắc và nền sân khấu tuồng cổ. Không chỉ đơn thuần là hình thức trang trí, những họa tiết này từng mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, thể hiện sự kết nối giữa con người – thiên nhiên – vũ trụ, giữa vật thể – tâm linh – nghệ thuật.

Họa tiết “hồi văn” – với đặc trưng là những góc vuông nối tiếp, lặp đi lặp lại – không chỉ mang tính trang trí mà còn là biểu tượng văn hóa sâu sắc trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam. Xuất hiện phổ biến trên bệ đá, gạch ngói, kiến trúc đình chùa và sân khấu tuồng xưa, hồi văn gợi nên sự tuần hoàn, liên tục và bất tận của vũ trụ. Trong tác phẩm này, hồi văn không chỉ là nền họa, mà còn đóng vai trò như một khung “sân khấu” biểu tượng, bao bọc toàn bộ câu chuyện bên trong. Đó là nơi các yếu tố văn hóa được trình hiện, như một lớp phông nền cổ kính, vững chãi, nhấn mạnh mạch nối giữa hiện tại và truyền thống, giữa đường nét thị giác và chiều sâu lịch sử.

Hoa lá cách điệu trong tác phẩm không đơn thuần là yếu tố trang trí, mà là biểu tượng giàu tính biểu cảm, gắn liền với tinh thần thẩm mỹ truyền thống của người Việt. Những đường nét mềm mại, uốn lượn được chắt lọc từ hình ảnh thực của cỏ cây, hoa lá – nhưng qua bàn tay nghệ nhân, chúng đã được tiết chế, chuyển hóa thành những mô thức trang trí hài hòa, thanh thoát. Ẩn sau vẻ đẹp đó là triết lý về thiên nhiên vĩnh cửu, về sự sống không ngừng sinh sôi và lan tỏa. Trong nghệ thuật cổ truyền, hoa lá cách điệu còn thể hiện khát vọng hòa hợp với đất trời, với nhịp sống muôn đời, và với cái đẹp mang hồn cốt thuần Việt – một vẻ đẹp nền nã, kín đáo mà sâu sắc, gợi nhớ đến các bức chạm khắc gỗ đình làng, các mảng họa tiết trên áo gấm hay sân khấu tuồng xưa.

Bố cục hình vuông trong tác phẩm không chỉ là lựa chọn mang tính thẩm mỹ mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, bắt nguồn từ triết lý ngũ hành phương Đông. Hình vuông tượng trưng cho yếu tố "đất" – đại diện cho sự ổn định, bao dung và nền tảng của vạn vật. Trong không gian thị giác này, hình vuông trở thành một “sân khấu phẳng” nơi những câu chuyện nhân sinh được tái hiện, nơi con người đứng giữa vòng xoay của trời đất, của văn hóa và lịch sử. Đây là vùng không gian tĩnh lặng nhưng ẩn chứa dòng chảy nội tại, nơi mỗi họa tiết, mỗi chuyển động của đường nét đều là một dấu vết của ký ức, ột hồi tưởng về trật tự vũ trụ và mối giao hòa giữa con người với thiên nhiên.

Họa tiết mây lượn

Hình tượng “mây” trong tác phẩm không chỉ đơn thuần là một yếu tố trang trí mà còn mang chiều sâu triết lý, biểu đạt cho “khí” – một khái niệm cốt lõi trong vũ trụ quan phương Đông. Theo quan niệm Á Đông, “khí” là bản nguyên sinh động, là dòng năng lượng liên tục luân chuyển giữa trời và đất, nuôi dưỡng sự sống và vận hành toàn thể vạn vật. Trong không gian nghệ thuật sân khấu truyền thống, đặc biệt là hát bội, các nhân vật không chỉ hiện diện bằng hình thể mà còn sống trong sự chuyển động của “khí” – biểu hiện qua dáng đi, ánh mắt, tiếng hát, và từng cử chỉ trau chuốt. Tác phẩm vì thế sử dụng họa tiết mây không như một phông nền tĩnh mà như một dòng khí lưu, khơi gợi nhịp điệu sống động của sân khấu cổ truyền, nơi mọi biểu cảm, mọi vai diễn đều là kết quả của sự tương tác tinh tế giữa hình – thần – khí.

Không chỉ mang tính biểu tượng cho dòng “khí” luân chuyển trong vũ trụ quan phương Đông, “mây” còn đóng vai trò như một đường biên mơ hồ giữa thực và ảo, giữa cõi trần gian và thế giới thần linh. Trong ngôn ngữ hình tượng của sân khấu Hát Bội, nơi nghệ thuật không mô phỏng hiện thực mà nâng hiện thực lên tầm biểu tượng, mây thường xuất hiện như dấu hiệu của sự chuyển hóa – là làn sương mỏng ngăn cách phàm tục và linh thiêng, đồng thời mở ra cánh cửa dẫn vào không gian huyền thoại, nơi các tích tuồng diễn ra. Những nhân vật trong tuồng – khi bước lên sân khấu – cũng như đang vượt qua tầng mây ấy để hiện hình trong một thế giới đầy phép màu, nơi quá khứ và hiện tại, người và thần, lý trí và cảm xúc đan xen. Họa tiết mây trong tác phẩm vì vậy không chỉ là yếu tố thị giác, mà còn là lớp lang ý niệm, chất chứa tinh thần siêu thực và linh thiêng của sân khấu truyền thống Việt Nam.

CHÍNH SÁCH KHÁCH HÀNG

Chính sách bảo hành
Chính sách bảo mật
Chính sách vận chuyển
Copyright © 2025 Hoavan

THÔNG TIN LIÊN HỆ

Address: 207 Trần Đăng Ninh, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Hotline: 0869 344 867
Email: Hoavansilk@gmail.com